Tôn giáo Đảng_Hạng

Quốc giáo của Tây Hạ là Phật giáo, nó giữ một vai trò cực kỳ quan trọng trong xã hội Đảng Hạng. Toàn bộ kinh sách Phật giáo Trung Hoa đã được dịch sang tiếng Đảng Hạng trong khoảng thời gian 50 năm và được ban bố vào khoảng năm 1090 với 3700 quyển, đây là một kỳ công nếu so sánh với khoảng thời gian người Hán hoàn thành nhiệm vụ tương tự. Phật giáo ở Tây Hạ thường được đánh giá là một sự pha trộn giữa các truyền thống Tạng và Hán, trong đó Hoa Nghiêm Thiền tông có tầm ảnh hưởng lớn nhất. Đặc điểm đặc trưng khác của Phật giáo Đảng Hạng là có sự tương đồng về các đức tin Phật giáo với Đại Liêu của người Khiết Đan: một số bản văn trước đây được cho là có nguồn gốc Đảng Hạng bản địa, hóa ra lại là các bản dịch từ bản văn Khiết Đan gốc.

Mức độ ảnh hưởng của yếu tố Tạng đối với sự hình thành của Phật giáo Đảng Hạng vẫn chưa được khám phá, đặc biệt là trong bối cảnh các phát hiện mới cho thấy rằng Phật giáo Đảng Hạng sở hữu nhiều yếu tố văn hóa bản địa ở phía bắc Trung Quốc hơn là ảnh hưởng thuần từ văn hóa Tạng hay Hán. Các bản văn thuộc giáo phái Đại thủ ấn của Tây Tạng giải thích rằng Phật giáo Đảng Hạng ban đầu tiến triển theo dòng Ca-mã-ca-cử phái (Karma Kagyu) thay vì Tát-già phái (Sakya). Một số cơ sở Phật giáo Đảng Hạng, chẳng hạn như "Đế sư" đã tồn tại lâu hơn bản thân Tây Hạ và vẫn có thể thấy được vào thời Nguyên. Một trong các nguồn rõ ràng hơn về Phật giáo Đảng Hạng là ở Ngũ Đài sơn, nơi mà cả Hoa Nghiêm tông và Kim Cương thừa đều phát triển mạnh mẽ từ cuối thời nhà Đường cho đến khi người Mông Cổ xâm lược.

Một số nguồn đối lập thì cho rằng tôn giáo Đảng Hạng có nguồn gốc từ Khổng giáo. Có thể đúng là Nho giáo tồn tại ở Tây Hạ, song mức độ sùng kính với Vạn thế sư biểu thì không thể so sánh về mức độ phổ biến của việc sùng bái Phật giáo. Điều đó cũng có thể được chứng minh bằng các văn hiến Đảng Hạng còn tồn tại, trong đó chủ yếu là kinh Phật, trong khi những thứ gọi là "văn học thế tục", bao gồm kinh điển Nho giáo hầu như không thể tìm thấy trong các bản dịch tiếng Đảng Hạng.

Nhà nước Đảng Hạng thi hành các điều luật nghiêm khắc liên quan đến giảng dạy các tín ngưỡng tôn giáo và kiểm tra nghiêm các giảng sư tiềm năng. Trước khi một người được phép giảng đạo, họ sẽ cần phải được sự cho phép của chính quyền địa phương nếu mới đến từ Tây Tạng hay Ấn Độ. Các học thuyết được giảng dạy và phương pháp được sử dụng được giám sát một cách cẩn thận để đảm bảo người Đảng Hạng không thể hiểu sai về giáo lý. Bất cứ ai bị phát hiện ra là một thầy bói hay lang băm sẽ phải đối mặt với hành vi ngược đãi ngay lập tức. Xét thấy trái với đức tin về luân thường đạo đức của Phật giáo, nhà nước Đảng Hạng nghiêm cấm hoàn toàn việc giảng sư nhận đồ đáp lễ hay đồ tưởng thưởng cho việc giảng dạy của họ.

Mặc dù nhà nước Đảng Hạng không ủng hộ một trường phát Phật giáo chính thức nào, song họ bảo vệ tất cả các địa điểm và vật thể tôn giáo bên trong biên giới quốc gia. Giống như các triều đại Trung Hoa, việc trở thành một tu sĩ cần phải được chính quyền ân chuẩn, và bất cứ ai thực hiện lời tuyên thệ của một tu sĩ mà không có sự giám sát của chính quyền sẽ phải đối mặt với việc bị trừng phạt nặng. Phụ nữ cũng đóng một vai trò trong các hoạt động tôn giáo Đảng Hạng khi họ trở thành các ni cô, một vị trí mà chỉ một góa phụ hay một trinh nữ là có thể đảm nhiệm.

Suchan (1998) tìm thấy ảnh hưởng của một vài vị Cát-mã-ba (Karmapa) đầu tiên đối với các triều Nguyên và Minh cũng như Tây Hạ, và nói đến Đô-tùng Khâm-ba (Desum Khyenpa):

Một vài vị Cát-mã-ba đầu tiên trở nên nổi bật do vị trí quan trọng của họ trong các triều đình Nguyên và Minh tại Trung Quốc, ở đó họ là người chỉ dẫn tinh thần cho các hoàng tửhoàng đế. Tầm ảnh hưởng của họ cũng mở rộng đến triều đình Hạ của người Đảng Hạng, ở đó một đệ tử của Đô-tùng Khâm-ba được vua Tây Hạ trao cho tước hiệu "Thượng sư"..."[12][13]